Na, e whakamoemiti ana ahau ki a koutou, mo koutou ka mahara ki ahau i nga mea katoa, ka pupuri hoki i nga whakarerenga iho, i aku i tuku atu na ki a koutou.
Tôi khen anh em vì hay nhớ đến tôi trong mọi dịp, và lấy lòng trung tín mà giữ những điều tôi đã dạy dỗ anh em.
Ko te wahine ia e inoi ana, e poropiti ana ranei, kahore nei he hipoki o te upoko, e whakaiti ana ia i tona upoko: e rite tonu ana tena ano kua oti tona te heu.
Nhưng phàm người đờn bà cầu nguyện hoặc giảng đạo mà không trùm đầu lại, thì làm nhục đầu mình: thật chẳng khác gì đã cạo đầu vậy.
He aha? Kahore koia o koutou whare e kai ai, e inu ai koutou? e whakahawea ana ranei koutou ki te hahi a te Atua, e mea ana hoki kia whakama te hunga kahore nei a ratou mea? Kia pehea atu taku kupu ki a koutou? kia whakamoemiti oti ahau ki a kou tou mo tenei mea? e kore ra ahau e whakamoemiti.
Anh em há chẳng có nhà để ăn uống sao? Hay là anh em khinh bỉ Hội thánh của Ðức Chúa Trời, muốn làm cho những kẻ không có gì phải hổ thẹn? Tôi nên nói chi với anh em? Có nên khen anh em không? Trong việc nầy tôi chẳng khen đâu.
A ka mutu te whakawhetai, ka whatia e ia, na ka mea ia, Tangohia, kainga; ko toku tinana tenei ka whatiwhatia nei mo koutou: meinga tenei hei whakamahara ki ahau.
tạ ơn, rồi bẻ ra mà phán rằng: Nầy là thân thể ta, vì các ngươi mà phó cho; hãy làm điều nầy để nhớ ta.
Me te kapu ano i te mutunga o te hapa, me tana mea ano, Ko te kawenata hou tenei kapu i runga i oku toto: meinga tenei i nga inumanga katoa hei whakamahara ki ahau.
Cũng một lẽ ấy, sai khi ăn bữa tối rồi, Ngài lấy chén và phán rằng: Chén nầy là sự giao ước mới trong huyết ta; hễ khi nào các ngươi uống, hãy làm điều nầy để nhớ ta.
Ki te hiakai tetahi, hei roto i tona whare kai ai; kei ai to koutou huihuinga hei take whakawa. Ko era atu mea hoki, maku e whakatika ina tae atu ahau.
Ví bằng có ai đói, hãy ăn tại nhà mình, hầu cho anh em không nhóm lại để mà chuốc lấy sự đoán xét. Còn các việc khác, lúc tôi đến sẽ đoán định.