Hei manuhiri ia ma koutou i roto i te Ariki, kia rite ki ta te hunga tapu tikanga, a kia awhina koutou i a ia ki nga mea e matea e ia: he tokomaha hoki ana i atawhai ai, ahau ano hoki.
Hãy ân cần tiếp rước người trong Chúa chúng ta, một cách xứng đáng với thánh đồ, và hãy giúp đỡ người trong mọi dịp mà người sẽ cần đến anh em; vì chính người đã giúp nhiều kẻ, và cũng giúp tôi nữa.
Na raua nei hoki o raua na kaki i taku kia ora ai ahau: ehara i te mea ko ahau anake e whakawhetai ana ki a raua, engari ko nga hahi katoa hoki o nga tauiwi:
là hai người liều chết để cứu sự sống tôi; ấy chẳng những một mình tôi tạ ơn hai người, nhưng cả các Hội thánh của dân ngoại nữa.
Oha atu ki a Anaroniku raua ko Hunia, oku whanaunga, oku hoa herehere ano hoki, he ingoa nunui nei o raua i roto i nga apotoro, no mua nei i ahau to raua urunga ki a te Karaiti.
Hãy chào An-trô-ni-cơ và Giu-ni-a, tức là bà con và bạn đồng tù với tôi, là hai người có danh vọng trong các sứ đồ và thuộc về Ðấng Christ trước tôi vậy.
Na he tohe tenei naku ki a koutou, e oku teina, tirohia iho te hunga e mahi ana i nga wehewehenga, i nga tutukitanga waewae, he mea puta ke i te whakaakoranga i whakaakona ai koutou: tahuri atu i a ratou.
Hỡi anh em, tôi khuyên anh em coi chừng những kẻ gây nên bè đảng và làm gương xấu, nghịch cùng sự dạy dỗ mà anh em đã nhận. Phải tránh xa họ đi,
Ko te hunga pera hoki kahore i te mahi ki to tatou Ariki, ki a Ihu Karaiti, engari ki to ratou ake kopu: e tinihanga ana hoki ratou i nga ngakau o te hunga kinokore ki a ratou korero maeneene, ki a ratou kupu whakapaipai.
vì những kẻ đó chẳng hầu việc Ðấng Christ, Chúa chúng ta, song hầu việc cái bụng họ, và lấy những lời ngọt ngào dua nịnh dỗ dành lòng kẻ thật thà.
Kua paku hoki ki nga tangata katoa te rongo o to koutou ngohengohe. Koia ahau ka hari nei ki a koutou: e mea ana hoki ahau kia whai whakaaro koutou ki te pai, kia kuware ki te mea kino.
Sự anh em vâng phục thì ai ai cũng biết rồi, vậy tôi vì anh em vui mừng, mong rằng anh em khôn ngoan về điều lành, và thanh sạch đối với điều dữ.
Na tera te Atua o te rangimarie e hohoro te kuru i a Hatana ki raro i o koutou waewae. Kia tau ki a koutou te aroha noa o to tatou Ariki, o Ihu Karaiti.
Ðức Chúa Trời bình an sẽ kíp giày đạp quỉ Sa-tan dưới chơn anh em. Nguyền xin ân điển của Ðức Chúa Jêsus chúng ta ở cùng anh em!
Tenei te oha atu nei ki a koutou a Kaiu te kaiatawhai oku, o te hahi katoa. Tenei te oha atu nei a Eratu, kaitiaki o nga mea o te pa, raua ko te teina, ko Kuaratu.
Gai-út là người tiếp đãi tôi cùng tiếp đãi cả Hội thánh, chào anh em.
Na he kaha nei te Atua ki te whakau i a koutou, i runga i nga ritenga o taku rongopai, o te kauwhautanga hoki o Ihu Karaiti, o te whakakitenga mai ano o te mea ngaro, kihai nei i rangona no te timatanga ra ano o te ao,
Ngợi khen Ðấng có quyền làm cho vững chí anh em theo Tin Lành của tôi và lời giảng Ðức Chúa Jêsus Christ, theo sự tỏ ra về lẽ mầu nhiệm, là lẽ đã giấu kín từ mọi đời trước,
A kua whakamaramatia mai inaianei e nga karaipiture a nga poropiti, he mea whakarite mai na te Atua ora tonu, a whakapuakina mai ana ki nga tauiwi katoa kia ngohengohe ai ratou ki ta te whakapono:
mà bây giờ được bày ra, và theo lịnh Ðức Chúa Trời hằng sống, bởi các sách tiên tri, bày ra cho mọi dân đều biết, đặng đem họ đến sự vâng phục của đức tin,