A ka mea ia, Ko te Atua ahau, ko te Atua o tou papa: kaua e wehi ki te haere ki raro, ki Ihipa; ka meinga hoki koe e ahau hei iwi nui ki reira:
Ðức Chúa Trời phán: Ta là Ðức Chúa Trời, Ðức Chúa Trời của cha ngươi. Hãy xuống Ê-díp-tô, đừng sợ chi, vì tại đó ta sẽ làm cho ngươi thành một nước lớn.
Na ka whakatika atu a Hakopa i Peerehepa, a ka kawea a Hakopa, to ratou papa, e nga tama a Iharaira, me a ratou tamariki, me a ratou wahine, i runga i nga kaata i tukua mai e Parao hei tiki atu i a ia.
Từ Bê -e-Sê-ba, Gia-cốp khởi đi; các con trai Y-sơ-ra-ên để Gia-cốp, cha mình, cùng các vợ và con mình lên xe cộ của Pha-ra-ôn đã sai đến rước những người đó.
Ko nga tama a hura; ko Ere, ko Onana, ko Heraha, ko Parete, ko Taraha: ko Ere ia raua ko Onana i mate ki te whenua o Kanaana. Ko nga tama a Parete, ko Heterono raua ko Hamuru.
Các con trai của Giu-đa là Ê-rơ, O-nan, Sê-la, Phê-rết và Sê-rách. Nhưng Ê-rơ và O-nan đã thác tại xứ Ca-na-an; con của Phê-rết là Hết-rôn, và Ha-mun.
Ko nga tama enei a Rea, i whanau nei i a raua ko Hakopa ki Paranaarama, ratou ko tana tamahine, ko Rina: e toru tekau ma toru nga wairua katoa o ana tama, o ana tamahine.
Vả, các con trai, và một con gái tên là Ði-na, mà Lê-a sanh cho Gia-cốp khi ở tại Pha-đan-a-ram, cùng các cháu đó, hết thảy là ba mươi ba người.
Ko nga tama enei a Tiripa, a tera i homai nei e Rapana ki a Rea, ki tana tamahine, i whanau nei i a raua ko Hakopa; kotahi tekau ma ono wairua.
Vả, các con của nàng Xinh-ba sanh cho Gia-cốp, cùng các cháu đó, hết thảy là mười sáu người. Nàng là con đòi của của La-ban đã cho theo hầu Lê-a, con gái mình.
Ko nga tama enei a Piriha, a tera i homai nei e Rapana ki tana tamahine, ki a Rahera, a whanau ake enei i a raua ko Hakopa: e whitu aua wairua katoa.
Vả, các con trai của nàng Bi-la sanh cho Gia-cốp, cùng các cháu đó, hết thảy là bảy người. Nàng là con đòi của La-ban đã cho theo hầu Ra-chên, con gái mình.
Ko nga wairua katoa i haere tahi nei i a Hakopa ki Ihipa, i puta mai nei i roto i tona hope, e ono tekau ma ono nga wairua katoa; haunga nga wahine a nga tama a Hakopa.
Các người đi đến xứ Ê-díp-tô với Gia-cốp, tức là các người do nơi Gia-cốp sanh, nếu không kể các nàng dâu, thì hết thảy là sáu mươi sáu người.
Na ka whakanohoia e Hohepa tona hariata, a haere ana ki te whakatau i tona papa, i a Iharaira, ki Kohena, a ka tae atu ki tona aroaro; na ka hinga ia ki runga ki tona kaki, a he roa tana tangihanga i runga i tona kaki.
Giô-sép thắng xe đi lên Gô-sen, đón Y-sơ-ra-ên, cha mình. Người ra mắt cha, ôm choàng lấy người và khóc một hồi lâu.
Na ka mea a Hohepa ki ona tuakana, ki te whare ano hoki o tona papa, Ka haere ahau ki runga, ki te korero ki a Parao, ki te mea ki a ia, Kua tae mai ki ahau oku tuakana, me te whare o toku papa, i noho ra i te whenua o Kanaana;
Ðoạn Giô-sép nói cùng anh em và người nhà cha mình rằng: Tôi sẽ lên trước tâu cho Pha-ra-ôn hay rằng: Anh em và cả nhà cha tôi, ở xứ Ca-na-an đã đến cùng tôi.
Me ki atu e koutou, He hunga whangai kararehe au pononga, o to matou taitamarikitanga ake a mohoa noa nei, matou, me o matou matua: kia noho ai koutou ki te whenua o Kohena; no te mea hoki he mea whakarihariha ki nga Ihipiana nga hepara katoa.
Thì hãy tâu rằng: Kẻ tôi tớ chúa cùng tổ phụ chúng tôi vẫn làm nghề nuôi súc vật từ thuở còn nhỏ cho đến giờ. Ấy hầu cho anh em đặng ở lại xứ Gô-sen, vì dân Ê-díp-tô có tánh gớm ghê hết thảy kẻ chăn chiên lắm.