Psalms 4

Ki te tino kaiwhakatangi Nekinoto. He himene na Rawiri. Whakahokia mai he kupu ki ahau, e te Atua o toku tika, ina karanga ahau: i ahau i te pouri i whakaputaina ahau e koe; kia atawhai ki ahau, whakarongo ki taku inoi.
Hỡi Ðức Chúa Trời của sự công bình tôi, Khi tôi kêu cầu, xin hãy đáp lời tôi. Khi tôi bị gian truân Ngài để tôi trong nơi rộng rãi; Xin hãy thương xót tôi, và nghe lời cầu nguyện tôi.
E nga tama a te tangata, kia pehea te roa o ta koutou mea i toku kororia hei whakama, o ta koutou aroha ki te horihori, o ta koutou whai i te teka? (Hera.
Hỡi các con loài người, sự vinh hiển ta sẽ bị sỉ nhục cho đến chừng nào? Các ngươi sẽ ưa mến điều hư không, Và tìm sự dối trá cho đến bao giờ?
Otiia kia mohio koutou he mea momotu ke na Ihowa te tangata tapu mana: e whakarongo a Ihowa ua karanga ahau ki a ia.
Phải biết rằng Ðức Giê-hô-va đã để riêng cho mình người nhơn đức. Khi ta kêu cầu Ðức Giê-hô-va, ắt Ngài sẽ nghe lời ta.
Kia oho koutou, a kaua e hara: korerorero ki o koutou ngakau i runga i o koutou moenga, me te ata takoto ano. (Hera.
Các ngươi khá e sợ, chớ phạm tội; Trên giường mình hãy suy gẫm trong lòng, và làm thinh.
Patua nga whakahere o te tika, me te okioki ano ki a Ihowa.
Hãy dâng sự công bình làm của lễ Và để lòng tin cậy nơi Ðức Giê-hô-va.
He tokomaha te mea ana, Ma wai e whakakite te pai ki a matou? Kia ara, e Ihowa, te marama o tou mata ki runga ki a matou.
Nhiều người nói: Ai sẽ cho chúng ta thấy phước? Hỡi Ðức Giê-hô-va, xin soi trên chúng tôi sự sáng mặt Ngài.
Hira ake te hari i homai e koe ki roto ki toku ngakau i to ratou i te wa i hua ai a ratou witi, ta ratou waina.
Chúa khiến lòng tôi vui mừng nhiều hơn chúng nó, Dầu khi chúng nó có lúa mì và rượu nho dư dật.
Ka takoto marire ahau, a moe tonu iho: ko koe anake hoki, e Ihowa, hei mea kia au toku noho.
Hỡi Ðức Giê-hô-va, tôi sẽ nằm và ngủ bình an; Vì chỉ một mình Ngài làm cho tôi được ở yên ổn.