Psalms 13

Ki te tino kaiwhakatangi. He himene na Rawiri. Kia pehea te roa o tou wareware ki ahau, e Ihowa? mo ake tonu atu ranei? Kia pehea te roa o tau hunanga i tou mata ki ahau?
Ðức Giê-hô-va ôi! Ngài sẽ hằng quên tôi cho đến chừng nào? Ngài ẩn mặt cùng tôi cho đến bao giờ?
Kia pehea te roa o toku whakaaroaronga i roto i toku wairua, o te pouri i roto i toku ngakau i tenei ra, i tenei ra? Kia pehea te roa o te whakakake mai a toku hoariri ki ahau?
Tôi phải lo lắng nơi linh hồn tôi, Hằng ngày buồn thảm nơi lòng tôi cho đến bao giờ? Kẻ thù nghịch tôi sẽ trổi hơn tôi cho đến chừng nào?
Titiro mai, whakahokia mai he kupu ki ahau, e Ihowa, e toku Atua: whakamaramatia oku kanohi, kei moe ahau i te moe o te mate.
Hỡi Giê-hô-va, Ðức Chúa Trời tôi, xin hãy xem xét, nhậm lời tôi, Và làm cho mắt tôi được sáng, Kẻo tôi phải ngủ chết chăng.
Kei mea mai toku hoariri, Kua taea ia e ahau: kei whakamanamana oku hoariri, ina whakakorikoria ahau.
Kẻ thù nghịch n@³i rằng: Ta đã thắng hơn nó, Và kẻ cừu địch mừng rỡ khi tôi xiêu tó.
Ko ahau ia e whakawhirinaki ana ki tau mahi toku: ka whakamanamana toku ngakau ki tau whakaoranga.
Nhưng tôi đã tin cậy nơi sự nhơn từ Chúa; Lòng tôi khoái lạc về sự cứu rỗi của Chúa.
Ka waiata ahau ki a Ihowa, mona i atawhai mai ki ahau.
Tôi sẽ hát ngợi khen Ðức Giê-hô-va, vì Ngài đã làm ơn cho tôi.