Psalms 14

Kẻ ngu dại nói trong lòng rằng: chẳng có Ðức Chúa Trời. Chúng nó đều bại hoại, đã làm những việc gớm ghiếc; Chẳng có ai làm đều lành.
Ki te tino kaiwhakatangi. Na Rawiri. Kua ki te wairangi i tona ngakau, Kahore he Atua. Kua pirau ratou, he whakahouhou a ratou mahi, kahore tetahi e mahi ana i te pai.
Ðức Giê-hô-va từ trên trời ngó xuống các con loài người, Ðặng xem thử có ai khôn ngoan, Tìm kiếm Ðức Chúa Trời chăng.
I titiro iho a Ihowa i te rangi ki nga tama a te tangata, kia kite me kahore tetahi e mahara ana, e rapu ana i te Atua.
Chúng nó thay thảy đều bội nghịch, cùng nhau trở nên ô uế; chẳng có ai làm điều lành, Dầu một người cũng không.
Kua peka ke ratou katoa kua pirau tahi: kahore tetahi e mahi ana i te pai, kohore kia kotahi.
Các kẻ làm ác há chẳng hiểu biết sao? Chúng nó ăn nuốt dân ta khác nào ăn bánh, và cũng chẳng kề cầu khẩn Ðức Giê-hô-va.
E kore ranei e mohio nga kaimahi katoa o te kino? e kai nei i toku iwi, me te mea e kai taro ana, a kahore e karanga ki a Ihowa.
Chúng nó bị cơn kinh khiếp áp bắt, Vì Ðức Chúa Trời ở giữa dòng dõi kẻ công bình.
Na, i reira ratou e tuiri noa ana: kei roto hoki te Atua i te whakatupuranga o te hunga tika.
Các ngươi làm bại mưu kẻ khốn cùng, Bởi vì Ðức Giê-hô-va là nơi nương náu của người.
Meinga ana e koutou te whakaaro o te hunga iti hei whakama, no te mea ko Ihowa tona piringa.
Ôi! chớ chi từ Si-ôn sự cứu rỗi của Y-sơ-ra-ên đã đến! Khi Ðức Giê-hô-va đem về những phu tù của dân sự Ngài, Thì Gia-cốp sẽ mừng rỡ và Y-sơ-ra-ên vui vẻ.
Aue, me i puta mai te whakaoranga o Iharaira i Hiona! Kia whakahokia e Ihowa tana iwi i te whakarau, ka whakamanamana a Hakopa, ka hari a Iharaira.