Numbers 7

Khi Môi-se đã dựng xong đền tạm, và đã xức dầu cùng biệt riêng ra thánh hết thảy đồ đạc của đền tạm, xức dầu và biệt riêng ra thánh bàn thờ và hết thảy đồ đạc của bàn thờ rồi,
Musa konutu bitirdiği gün onu meshetti. Onu ve içindeki bütün eşyaları, sunağı ve bütün takımlarını da meshedip adadı.
thì các trưởng tộc của Y-sơ-ra-ên, tức là các quan trưởng về những chi phái mà đã cai trị cuộc tu bộ dân, đều đem dâng lễ vật của mình.
Sonra İsrail ileri gelenleri, sayılanlardan sorumlu olan aile ve oymak önderleri armağanlar sundular. RAB’be armağan olarak üstü kapalı altı araba ve on iki öküz getirdiler: Her iki önder için bir araba, her önder için bir öküz. Bu armağanları konutun önüne getirdiler.
Vậy, các quan trưởng dẫn lễ vật mình đến trước mặt Ðức Giê-hô-va: Sáu xe cộ, hình như cái kiệu, và mười hai con bò đực, nghĩa là mỗi hai quan trưởng đồng dâng một xe cộ, và mỗi một người dâng một con bò đực; họ dâng lễ vật đó trước đền tạm.
Sonra İsrail ileri gelenleri, sayılanlardan sorumlu olan aile ve oymak önderleri armağanlar sundular. RAB’be armağan olarak üstü kapalı altı araba ve on iki öküz getirdiler: Her iki önder için bir araba, her önder için bir öküz. Bu armağanları konutun önüne getirdiler.
Ðức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: Hãy thâu nhận các lễ vật của những người nầy, để dùng vào công việc hội mạc; và hãy giao cho người Lê-vi,
Sonra RAB Musa’ya, “Bunları Buluşma Çadırı’ndaki hizmetlerde kullanılmak üzere onlardan alıp yapacakları işe göre Levililer’e ver” dedi.
tức là cho mọi người tùy theo chức phận mình.
Sonra RAB Musa’ya, “Bunları Buluşma Çadırı’ndaki hizmetlerde kullanılmak üzere onlardan alıp yapacakları işe göre Levililer’e ver” dedi.
Vậy, Môi-se bèn nhận lấy các xe cộ và những bò đực, giao cho người Lê-vi.
Musa arabaları, öküzleri alıp Levililer’e verdi.
Người giao cho con cháu Ghẹt-sôn hai xe cộ và bốn con bò đực, tùy theo chức phận của họ.
Yapacakları işe göre Gerşonoğulları’na iki arabayla dört öküz,
Người giao cho con cháu Mê-ra-ri bốn xe cộ và tám con bò đực, tùy theo chức phận của họ, có Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn, làm quản lý.
Merarioğulları’na da dört arabayla sekiz öküz verdi. Bunlar Kâhin Harun oğlu İtamar’ın sorumluluğu altında yapıldı.
Nhưng người không có giao chi cho con cháu Kê-hát, vì họ mắc phần công việc về những vật thánh, và gánh vác những vật đó trên vai mình.
Kehatoğulları’na ise bir şey vermedi. Çünkü onların görevi kutsal eşyaları omuzlarında taşımaktı.
Trong ngày bàn thờ được xức dầu, các quan trưởng dâng lễ vật mình trước bàn thờ về cuộc khánh thành nó.
Meshedilen sunağın adanması için önderler armağanlarını sunağın önüne getirdiler.
Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Các quan trưởng phải đem lễ vật mình về cuộc khánh thành bàn thờ, người nầy thì ngày nay, người kia thì ngày kia.
Çünkü RAB Musa’ya, “Sunağın adanması için her gün bir önder kendi armağanını sunacak” demişti.
Người dâng lễ vật mình ngày đầu, là Na-ha-sôn, con trai của A-mi-na-đáp, thuộc về chi phái Giu-đa.
Birinci gün Yahuda oymağından Amminadav oğlu Nahşon armağanlarını sundu.
Lễ-vật người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
Getirdiği armağanlar şunlardı: 130 kutsal yerin şekeli ağırlığında gümüş bir tabak, yetmiş şekel ağırlığında gümüş bir çanak –ikisi de tahıl sunusu için zeytinyağıyla yoğrulmuş ince un doluydu–
một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
buhur dolu on şekel ağırlığında altın bir tabak;
một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
yakmalık sunu için bir boğa, bir koç, bir yaşında bir erkek kuzu;
một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
günah sunusu için bir teke;
và về của lễ thù ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Ðó là lễ vật của Na-ha-sôn, con trai A-mi-na-đáp.
esenlik kurbanı için iki sığır, beş koç, beş teke, bir yaşında beş kuzu. Amminadav oğlu Nahşon’un getirdiği armağanlar bunlardı.
Ngày thứ hai, Na-tha-na-ên, con trai của Xu-a, quan trưởng Y-sa-ca, dâng lễ vật mình.
İkinci gün İssakar oymağı önderi Suar oğlu Netanel armağanlarını sundu.
Người dâng một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
Getirdiği armağanlar şunlardı: 130 kutsal yerin şekeli ağırlığında gümüş bir tabak, yetmiş şekel ağırlığında gümüş bir çanak –ikisi de tahıl sunusu için zeytinyağıyla yoğrulmuş ince un doluydu–
một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
buhur dolu on şekel ağırlığında altın bir tabak;
một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
yakmalık sunu için bir boğa, bir koç, bir yaşında bir erkek kuzu;
một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
günah sunusu için bir teke;
và về của lễ thù ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Ðó là lễ vật của Na-tha-na-ên. con trai Xu-a.
esenlik kurbanı için iki sığır, beş koç, beş teke, bir yaşında beş kuzu. Suar oğlu Netanel’in getirdiği armağanlar bunlardı.
Ngày thứ ba, đến quan trưởng của con cháu Sa-bu-lôn, là Ê-li-áp, con trai của Hê-lôn.
Üçüncü gün Zevulun oymağı önderi Helon oğlu Eliav armağanlarını sundu.
Lễ-vật của người là một cái dĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
Getirdiği armağanlar şunlardı: 130 kutsal yerin şekeli ağırlığında gümüş bir tabak, yetmiş şekel ağırlığında gümüş bir çanak –ikisi de tahıl sunusu için zeytinyağıyla yoğrulmuş ince un doluydu–
một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
buhur dolu on şekel ağırlığında altın bir tabak;
một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
yakmalık sunu için bir boğa, bir koç, bir yaşında bir erkek kuzu;
một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
günah sunusu için bir teke;
và về của lễ thù ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Ðó là lễ vật của Ê-li-áp, con trai Hê-lôn.
esenlik kurbanı için iki sığır, beş koç, beş teke, bir yaşında beş kuzu. Helon oğlu Eliav’ın getirdiği armağanlar bunlardı.
Ngày thứ tư, đến quan trưởng của con cháu Ru-bên, là Ê-lít-su, con trai Sê-đêu.
Dördüncü gün Ruben oymağı önderi Şedeur oğlu Elisur armağanlarını sundu.
Lễ-vật của người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
Getirdiği armağanlar şunlardı: 130 kutsal yerin şekeli ağırlığında gümüş bir tabak, yetmiş şekel ağırlığında gümüş bir çanak –ikisi de tahıl sunusu için zeytinyağıyla yoğrulmuş ince un doluydu–
một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
buhur dolu on şekel ağırlığında altın bir tabak;
một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
yakmalık sunu için bir boğa, bir koç, bir yaşında bir erkek kuzu;
một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
günah sunusu için bir teke;
và về của lễ thù ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Ðó là lễ vật của Ê-lít-su, con trai Sê-đêu.
esenlik kurbanı için iki sığır, beş koç, beş teke, bir yaşında beş kuzu. Şedeur oğlu Elisur’un getirdiği armağanlar bunlardı.
Ngày thứ năm, đến quan trưởng của con cháu Si-mê-ôn, là Sê-lu-mi-ên, con trai Xu-ri-ha-đai.
Beşinci gün Şimon oymağı önderi Surişadday oğlu Şelumiel armağanlarını sundu.
Lễ-vật của người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
Getirdiği armağanlar şunlardı: 130 kutsal yerin şekeli ağırlığında gümüş bir tabak, yetmiş şekel ağırlığında gümüş bir çanak –ikisi de tahıl sunusu için zeytinyağıyla yoğrulmuş ince un doluydu–
một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
buhur dolu on şekel ağırlığında altın bir tabak;
một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
yakmalık sunu için bir boğa, bir koç, bir yaşında bir erkek kuzu;
một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
günah sunusu için bir teke;
và về của lễ thù ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Ðó là lễ vật của Sê-lu-mi-ên, con trai Xu-ri-ha-đai.
esenlik kurbanı için iki sığır, beş koç, beş teke, bir yaşında beş kuzu. Surişadday oğlu Şelumiel’in getirdiği armağanlar bunlardı.
Ngày thứ sáu, đến quan trưởng của con cháu Gát, là Ê-li-a-sáp, con trai Ðê -u-ên.
Altıncı gün Gad oymağı önderi Deuel oğlu Elyasaf armağanlarını sundu.
Lễ-vật của người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
Getirdiği armağanlar şunlardı: 130 kutsal yerin şekeli ağırlığında gümüş bir tabak, yetmiş şekel ağırlığında gümüş bir çanak –ikisi de tahıl sunusu için zeytinyağıyla yoğrulmuş ince un doluydu–
một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
buhur dolu on şekel ağırlığında altın bir tabak;
một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
yakmalık sunu için bir boğa, bir koç, bir yaşında bir erkek kuzu;
một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
günah sunusu için bir teke;
và về của lễ thù ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Ðó là lễ vật của Ê-li-a-sáp, con trai Ðê -u-ên.
esenlik kurbanı için iki sığır, beş koç, beş teke, bir yaşında beş kuzu. Deuel oğlu Elyasaf’ın getirdiği armağanlar bunlardı.
Ngày thứ bảy, đến quan trưởng của con cháu Ép-ra-im, là Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút.
Yedinci gün Efrayim oymağı önderi Ammihut oğlu Elişama armağanlarını sundu.
Lễ-vật của người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
Getirdiği armağanlar şunlardı: 130 kutsal yerin şekeli ağırlığında gümüş bir tabak, yetmiş şekel ağırlığında gümüş bir çanak –ikisi de tahıl sunusu için zeytinyağıyla yoğrulmuş ince un doluydu–
một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
buhur dolu on şekel ağırlığında altın bir tabak;
một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
yakmalık sunu için bir boğa, bir koç, bir yaşında bir erkek kuzu;
một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
günah sunusu için bir teke;
và về của lễ thù ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Ðó là lễ vật của Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút.
esenlik kurbanı için iki sığır, beş koç, beş teke, bir yaşında beş kuzu. Ammihut oğlu Elişama’nın getirdiği armağanlar bunlardı.
Ngày thứ tám, đến quan trưởng của con cháu Ma-na-se, là Ga-ma-li-ên, con trai Phê-đát-su.
Sekizinci gün Manaşşe oymağı önderi Pedahsur oğlu Gamliel armağanlarını sundu.
Lễ-vật của người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
Getirdiği armağanlar şunlardı: 130 kutsal yerin şekeli ağırlığında gümüş bir tabak, yetmiş şekel ağırlığında gümüş bir çanak –ikisi de tahıl sunusu için zeytinyağıyla yoğrulmuş ince un doluydu–
một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
buhur dolu on şekel ağırlığında altın bir tabak;
một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
yakmalık sunu için bir boğa, bir koç, bir yaşında bir erkek kuzu;
một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
günah sunusu için bir teke;
và về của lễ thù ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Ðó là lễ vật của Ga-ma-li-ên, con trai Phê-đát-su.
esenlik kurbanı için iki sığır, beş koç, beş teke, bir yaşında beş kuzu. Pedahsur oğlu Gamliel’in getirdiği armağanlar bunlardı.
Ngày thứ chín, đến quan trưởng của con cháu Bên-gia-min, là A-bi-đan, con trai Ghi-đeo-ni.
Dokuzuncu gün Benyamin oymağı önderi Gidoni oğlu Avidan armağanlarını sundu.
Lễ-vật của người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
Getirdiği armağanlar şunlardı: 130 kutsal yerin şekeli ağırlığında gümüş bir tabak, yetmiş şekel ağırlığında gümüş bir çanak –ikisi de tahıl sunusu için zeytinyağıyla yoğrulmuş ince un doluydu–
một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
buhur dolu on şekel ağırlığında altın bir tabak;
một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
yakmalık sunu için bir boğa, bir koç, bir yaşında bir erkek kuzu;
một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
günah sunusu için bir teke;
và về của lễ thù ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Ðó là lễ vật của A-bi-đan, con trai Ghi-đeo-ni.
esenlik kurbanı için iki sığır, beş koç, beş teke, bir yaşında beş kuzu. Gidoni oğlu Avidan’ın getirdiği armağanlar bunlardı.
Ngày thứ mười, đến quan trưởng của con cháu Ðan, là A-hi-ê-xe, con trai A-mi-sa-đai.
Onuncu gün Dan oymağı önderi Ammişadday oğlu Ahiezer armağanlarını sundu.
Lễ-vật của người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
Getirdiği armağanlar şunlardı: 130 kutsal yerin şekeli ağırlığında gümüş bir tabak, yetmiş şekel ağırlığında gümüş bir çanak –ikisi de tahıl sunusu için zeytinyağıyla yoğrulmuş ince un doluydu–
một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
buhur dolu on şekel ağırlığında altın bir tabak;
một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
yakmalık sunu için bir boğa, bir koç, bir yaşında bir erkek kuzu;
một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
günah sunusu için bir teke;
và về của lễ thù ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con giáp năm. Ðó là lễ vật của A-hi-ê-xe, con trai A-mi-sa-đai.
esenlik kurbanı için iki sığır, beş koç, beş teke, bir yaşında beş kuzu. Ammişadday oğlu Ahiezer’in getirdiği armağanlar bunlardı.
Ngày thứ mười một, đến quan trưởng của con cháu A-se, là Pha-ghi-ên, con trai của Oùc-ran.
On birinci gün Aşer oymağı önderi Okran oğlu Pagiel armağanlarını sundu.
Lễ-vật của người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mười siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
Getirdiği armağanlar şunlardı: 130 kutsal yerin şekeli ağırlığında gümüş bir tabak, yetmiş şekel ağırlığında gümüş bir çanak –ikisi de tahıl sunusu için zeytinyağıyla yoğrulmuş ince un doluydu–
một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
buhur dolu on şekel ağırlığında altın bir tabak;
một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
yakmalık sunu için bir boğa, bir koç, bir yaşında bir erkek kuzu;
một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
günah sunusu için bir teke;
và về của lễ thù ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Ðó là lễ vật của Pha-ghi-ên, con trai Oùc-ran.
esenlik kurbanı için iki sığır, beş koç, beş teke, bir yaşında beş kuzu. Okran oğlu Pagiel’in getirdiği armağanlar bunlardı.
Ngày thứ mười hai, đến quan trưởng của con cháu Nép-ta-li, là A-hi-ra, con trai Ê-nan.
On ikinci gün Naftali oymağı önderi Enan oğlu Ahira armağanlarını sundu.
Lễ-vật của người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
Getirdiği armağanlar şunlardı: 130 kutsal yerin şekeli ağırlığında gümüş bir tabak, yetmiş şekel ağırlığında gümüş bir çanak –ikisi de tahıl sunusu için zeytinyağıyla yoğrulmuş ince un doluydu–
một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
buhur dolu on şekel ağırlığında altın bir tabak;
một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
yakmalık sunu için bir boğa, bir koç, bir yaşında bir erkek kuzu;
một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
günah sunusu için bir teke;
và về của lễ thù ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Ðó là lễ vật của A-hi-ra, con trai Ê-nan.
esenlik kurbanı için iki sığır, beş koç, beş teke, bir yaşında beş kuzu. Enan oğlu Ahira’nın getirdiği armağanlar bunlardı.
Ấy là những lễ vật của các quan trưởng dân Y-sơ-ra-ên dâng về cuộc khánh thành bàn thờ, khi bàn thờ được xức dầu: Mười hai đĩa bạc, mười hai chậu bạc, mười hai chén vàng;
Sunak meshedildiğinde İsrail önderlerinin adanması için sunduğu armağanlar şunlardı: On iki gümüş tabak, on iki gümüş çanak, on iki altın tabak;
mỗi cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, và mỗi cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ. Tổng cộng số bạc của các đĩa và chậu là hai ngàn bốn trăm siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh.
her gümüş tabağın ağırlığı 130 şekel, her çanağın ağırlığı yetmiş şekeldi. Bütün gümüş eşyaların toplam ağırlığı 2 400 kutsal yerin şekeliydi.
Mười hai cái chén vàng đầy thuốc thơm, mỗi cái mười siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh; tổng cộng số vàng của chén nặng được một trăm hai mươi siếc-lơ.
Buhur dolu on iki altın tabağın her birinin ağırlığı on kutsal yerin şekeliydi. Bütün altın tabakların toplam ağırlığı 120 şekeldi.
Tổng cộng số bò đực về của lễ thiêu là mười hai con, với mười hai con chiên đực, mười hai con chiên con giáp năm cùng những của lễ chay cặp theo, và mười hai con dê đực dùng về của lễ chuộc tội.
Yakmalık sunu için tahıl sunularıyla birlikte sunulan hayvanların sayısı on iki boğa, on iki koç, bir yaşında on iki erkek kuzuydu; günah sunusu için de on iki teke sunuldu.
Tổng cộng số bò đực về của lễ thù ân là hai mươi bốn con với sáu mươi con chiên đực, sáu mươi con dê đực, sáu mươi con chiên con giáp năm. Ấy là lễ vật dâng về cuộc khánh thành bàn thờ, sau khi bàn thờ được xức dầu rồi.
Esenlik kurbanı için sunulan hayvanların sayısı yirmi dört sığır, altmış koç, altmış teke, bir yaşında altmış kuzuydu. Sunak meshedildikten sonra, adanması için verilen armağanlar bunlardı.
Khi Môi-se vào hội mạc đặng hầu chuyện cùng Ðức Giê-hô-va, thì người nghe Tiếng nói cùng mình từ trên nắp thi ân để trên hòm bảng chứng, ở giữa hai chê-ru-bin, người hầu chuyện cùng Ðức Giê-hô-va vậy.
Musa RAB’le konuşmak için Buluşma Çadırı’na girince, Levha Sandığı’nın Bağışlanma Kapağı’nın üstündeki iki Keruv arasından kendisine seslenen sesi duydu. RAB Musa’yla bu şekilde konuştu.