Acts 28

Ðã được cứu như vậy rồi, chúng ta mới biết cù lao đó tên là Man-tơ.
Först sedan vi hade blivit räddade, fingo vi veta att ön hette Malta.Apg. 27,26.
Thổ nhơn đãi chúng ta một cách nhơn từ hiếm có, tiếp rước chúng ta thay thảy gần kề đống lửa lớn đã đốt, vì đang mưa và trời lạnh lẽo.
Och infödingarna visade oss en icke vanlig välvilja; de tände upp en eld och togo oss alla med sig dit, för det påkommande regnets och för köldens skull.
Phao-lô lượm được một bó củi khô, quăng vào trong lửa, xảy có con rắn lục từ trong bó củi bị nóng bò ra, quấn trên tay người.
När Paulus då tog upp ett fång torra kvistar som han lade på elden, kom, i följd av hettan, en huggorm fram därur och högg sig fast vid hans hand.
Thổ nhơn thấy con vật đeo thòng lòng trên tay người, bèn nói với nhau rằng: Thật người nầy là tay giết người; nên dầu được cứu khỏi biển rồi, nhưng lẽ công bình chẳng khứng cho sống!
Då infödingarna fingo se ormen hänga där vid hans hand, sade de till varandra: »Helt visst är denne man en dråpare, som rättvisans gudinna icke tillstädjer att leva, om han nu ock har blivit räddad undan havet.»
Nhưng Phao-lô rảy rắn vào lửa, chẳng thấy hề chi hết.
Men han skakade ormen ifrån sig i elden och led ingen skada.Mark. 16,18. Luk. 10,19.
Họ ngờ người sẽ bị sưng lên, hoặc ngã xuống chết tức thì; nhưng đã đợi lâu rồi, chẳng thấy hại chi cho người, bèn đổi ý mà nói rằng thật là một vì thần.
De väntade att han skulle svälla upp eller helt plötsligt falla ned död; men när de efter lång väntan fingo se att intet ont vederfors honom, ändrade de mening och sade att han var en gud.Apg. 14,11.
Trong chỗ đó, có mấy đám rằng thuộc về người tù trưởng của đảo ấy, tên là Búp-li -u; người nầy đãi đằng chúng ta cách mến khách lắm trong ba ngày.
I närheten av detta ställe var en lantgård, som tillhörde den förnämste mannen på ön, en som hette Publius; denne tog välvilligt emot oss och gav oss härbärge i tre dagar.
Vả, cha của Búp-li -u nầy đương nằm trên giường đau bịnh nóng lạnh và bịnh lỵ. Phao-lô đi thăm người, cầu nguyện xong, đặt tay lên và chữa lành cho.
Nu hände sig att Publius' fader låg sjuk i en magsjukdom med feberanfall. Paulus gick då in till honom och bad och lade händerna på honom och gjorde honom frisk.
Nhơn đó, ai nấy trong đảo có bịnh, đều đến cùng Phao-lô, và được chữa lành cả.
Men när detta hade skett, kommo också de av öns övriga inbyggare som hade någon sjukdom till honom och blevo botade.
Họ cũng tôn trọng chúng ta lắm, và lúc chúng ta đi, thì sửa soạn mọi đồ cần dùng cho chúng ta.
Och de bevisade oss ära på mångahanda sätt; och när vi skulle avsegla, försågo de oss med vad vi behövde.
Sau đó ba tháng, chúng ta xuống tàu ở A-léc-xan-tri mà đi, là tàu đã qua mùa đông tại đảo đó, và có hiệu là Ði-ốt-của.
Då tre månader voro förlidna, avseglade vi på ett skepp som hade legat vid ön över vintern; det var från Alexandria och bar Tvillinggudarnas bilder.
Tới thành Sy-ra-cu-sơ rồi, chúng ta ở lại đây ba ngày.
Och vi lade till vid Syrakusa och stannade där i tre dagar.
Từ nơi đó, chạy theo mé biển Si-si-lơ, tới thành Rê-ghi-um. Ðến ngày mai, vì gió nam nổi lên, nên sau hai ngày nữa chúng ta tới thành Bu-xô-lơ.
Därifrån foro vi längs kusten och kommo till Regium. Dagen därefter fingo vi sunnanvind, och vi kommo så redan på andra dagen till Puteoli.
Ở đó gặp anh em mời chúng ta ở lại bảy ngày; rồi thì đi đến thành Rô-ma.
Där träffade vi på bröder, och hos dem stannade vi, på deras inbjudning, i sju dagar. På detta sätt kommo vi till Rom.
Anh em trong thành nầy nghe nói về chúng ta, bèn ra đến Phô-rum Áp-bi -u và chỗ Ba Quán mà đón rước chúng ta. Phao-lô thấy anh em, thì cảm tạ Ðức Chúa Trời và vững chí.
Så snart bröderna där fingo höra om oss, gingo de oss till mötes ända till Forum Appii och Tres Taberne. När Paulus fick se dem, tackade han Gud och fick nytt mod.
Khi chúng ta đã đến thành Rô-ma, Phao-lô được phép ở riêng với một người lính canh giữ.
Och då vi hade kommit in i Rom, tillstaddes det Paulus att bo för sig själv, med den krigsman som skulle bevaka honom.Apg. 24,23. 27,3.
Sau ba ngày, người mời các trưởng lão trong dân Giu-đa nhóm lại; đến rồi, người nói rằng: Hỡi anh em ta, dẫu tôi chẳng từng làm điều gì nghịch cùng dân chúng hoặc cùng thói tục tổ phụ chúng ta, mà tôi còn bị bắt tại thành Giê-ru-sa-lem và nộp trong tay người Rô-ma.
Tre dagar därefter kallade han tillhopa de förnämsta av judarna; och när de hade kommit tillsammans, sade han till dem: »Mina bröder, fastän jag icke har gjort något mot vårt folk eller mot fädernas stadgar, blev jag likväl i Jerusalem överlämnad i romarnas händer och fördes bort därifrån såsom fånge.Apg. 21,30 f. 24,12. 25,8.
Những người nầy đã xét việc tôi rồi, thì muốn tha ra, vì tôi chẳng hề làm điều gì đáng chết.
Och när de hade anställt rannsakning med mig, ville de giva mig lös, eftersom jag icke hade gjort något som förtjänade döden.Apg. 23,9. 26,31 f.
Song người Giu-đa chống cự điều đó, nên buộc tôi kêu nài đến Sê-sa, nhưng chẳng phải có ý kiện bổn quốc ta đâu.
Men då judarna satte sig däremot, nödgades jag vädja till kejsaren; dock, icke som om jag hade någon anklagelse att göra mot mitt folk.Apg. 25,11.
Ấy vì cớ đó mà tôi đã xin gặp anh em và nói chuyện với, vì là bởi sự trông cậy của dân Y-sơ-ra-ên nên tôi mang lấy xiềng nầy.
Av denna orsak har jag kallat eder hit till mig, för att få se eder och tala med eder, ty det är för Israels hopps skull som jag är bunden med denna kedja.»Apg. 23,6. 2l,2l. 26,# f. Ef. 6,20.
Các ngươi ấy trả lời rằng: Chúng tôi chẳng tiếp thơ từ xứ Giu-đa nói về việc anh, và chẳng ai trong anh em đã đến mách cho chúng tôi hay là nói xấu về anh nữa.
Då svarade de honom: »Vi hava icke från Judeen mottagit någon skrivelse om dig, ej heller har någon av våra bröder kommit och berättat eller sagt något ont om dig.
Dầu vậy, chúng tôi muốn biết anh nghĩ làm sao; vì về phần đạo nầy, chúng tôi biết người ta hay chống nghịch khắp mọi nơi.
Men vi finna skäligt att du låter oss höra huru du tänker. Ty om det partiet är oss bekant att det allestädes mötes med gensägelse.Luk. 2,34. Apg. 24,5.
Họ đã hẹn ngày với người, bèn đến thăm tại nơi nhà trọ rất đông; từ buổi sáng đến chiều, người cứ làm chứng và giảng giải với họ về nước Ðức Chúa Trời, lấy luật pháp Môi-se và các đấng tiên tri mà gắng sức khuyên bảo họ về Ðức Chúa Jêsus.
Sedan utsatte de en viss dag för honom, och på den kommo ännu flera till honom i hans härbärge. Då vittnade han för dem om Guds rike och utlade vad därtill hör, och försökte att övertyga dem i fråga om Jesus, med bevis både ur Moses' lag och ur profeterna; därmed höll han på från morgonen ända till aftonen.Apg. 26,22.
Có người chịu tin lời người nói, có kẻ chẳng tin.
Och somliga läto övertyga sig av det som han sade, men andra trodde icke.Apg. 17,4 f.
Bởi chưng họ không đồng ý với nhau và ra về, nên Phao-lô chỉ nói thêm lời nầy: Ðức Thánh Linh đã phán phải lắm, khi Ngài dùng đấng tiên tri Ê-sai mà phán cùng tổ phụ các ngươi rằng:
Och då de icke kunde komma överens med varandra, gingo de sin väg, och därvid sade Paulus allenast detta ord: »Rätt talade den helige Ande genom profeten Esaias till edra fäder,2 Petr. 1,21.
Hãy đến nơi dân nầy và nói rằng: Các ngươi lấy lỗ tai nghe mà chẳng hiểu chi; Lấy mắt xem mà không thấy gì.
när han sade:  'Gå åstad och säg till detta folk:  Med hörande öron skolen I höra,  och dock alls intet förstå,  och med seende ögon skolen I se,  och dock alls intet förnimma.Jes. 6,9 f. Hes. 12,2. Matt. 13,14 f.
Vì lòng dân nầy đã nặng nề; Họ bịt lỗ tai, Nhắm mắt lại, E rằng mắt mình tự thấy, Tai mình tự nghe, Lòng mình tự hiểu, Và họ trở lại Mà ta chữa cho lành được chăng.
 Ty detta folks hjärta har blivit förstockat;  och med öronen höra de illa,  och sina ögon hava de tillslutit,  så att de icke se med sina ögon  eller höra med sina öron  eller förstå med sina hjärtan  och omvända sig och bliva helade av mig'
Vậy, hãy biết sự cứu rỗi của Ðức Chúa Trời nầy đã sai đến cho người ngoại; những người đó sẽ nghe theo vậy.
Det mån I därför veta: till hedningarna bar denna Guds frälsning blivit sänd; de skola ock akta därpå.»Ps. 67,3. 98,3. Luk. 3,6. 24,47. Apg. 13,46. 18,6.
Khi người nói xong, thì các ngươi Giu-đa đi ra, cãi lẫy cùng nhau dữ lắm.
Phao-lô ở trọn hai năm tại một nhà trọ đã thuê. Người tiếp rước mọi người đến thăm mình,
giảng về nước Ðức Chúa Trời, và dạy dỗ về Ðức Chúa Jêsus Christ cách tự do trọn vẹn, chẳng ai ngăn cấm người hết.