Psalms 51

Ðức Chúa Trời ôi! xin hãy thương xót tôi tùy lòng nhơn từ của Chúa; Xin hãy xóa các sự vi phạm tôi theo sự từ bi rất lớn của Chúa.
Ki te tino kaiwhakatangi. He himene na Rawiri, i te taenga o Natana poropiti ki a ia, mo tona haerenga ki a Patehepa. Tohungia ahau, e te Atua, kia rite ki tou atawhai: kia rite ki tou aroha nui te murunga o oku he.
Xin hãy rửa tôi cho sạch hết trọi gian ác, Và làm tôi được thanh khiết về tội lỗi tôi.
Horoia rawatia toku kino: kia ma hoki toku hara.
Vì tôi nhận biết các sự vi phạm tôi, Tội lỗi tôi hằng ở trước mặt tôi.
E whaki ana hoki ahau i aku mahi tutu: kei toku aroaro tonu toku hara.
Tôi đã phạm tội cùng Chúa, chỉ cùng một mình Chúa thôi, Và làm điều ác trước mặt Chúa; Hầu cho Chúa được xưng công bình khi Chúa phán, Và được thanh sạch khi Chúa xét đoán.
He hara ki a koe, ki a koe anake, toku; i meatia ano tenei he ki tou aroaro; kia tika ai koe i tau korerotanga, kia ma ai hoki ina whakawa.
Kìa, tôi sanh ra trong sự gian ác, Mẹ tôi đã hoài thai tôi trong tội lỗi.
Na i whakaahuatia ahau i roto i te kino, i runga ano i te hara toku whakahaputanga ki roto ki toku whaea.
Nầy, Chúa muốn sự chơn thật nơi bề trong; Chúa sẽ làm cho tôi được biết sự khôn ngoan trong nơi bí mật của lòng tôi.
Na ko tau e matenui ai ko te pono i nga wahi o roto, a ka whakaakona oku wahi ngaro e koe ki te whakaaro nui.
Xin hãy lấy chùm kinh giới tẩy sạch tội lỗi tôi, thì tôi sẽ được tinh sạch; Cầu Chúa hãy rửa tôi, thì tôi sẽ nên trắng hơn tuyết,
Purea ahau ki te hihopa, a ka ma ahau; horoia ahau, a ka ma ke atu i te hukarere.
Hãy cho tôi nghe sự vui vẻ mừng rỡ, Ðể các xương cốt mà Chúa đã bẻ gãy được khoái lạc.
Meinga kia rongo ahau i te hari, i te koa, a ka whakamanamana nga iwi i whatiia nei e koe.
Xin Chúa ngảnh mặt khỏi các tội lỗi tôi, Và xóa hết thảy sự gian ác tôi.
Huna tou mata ki oku hara; a murua katoatia oku kino.
Ðức Chúa Trời ôi! xin hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch, Và làm cho mới lại trong tôi một thần linh ngay thẳng.
Hanga, e te Atua, he ngakau ma ki roto ki ahau: whakahoutia hoki ki roto ki ahau he wairua tika.
Xin chớ từ bỏ tôi khỏi trước mặt Chúa, Cũng đừng cất khỏi tôi Thánh Linh Chúa.
Kaua ahau e maka i tou aroaro; kaua hoki tou wairua tapu e tangohia i ahau.
Xin hãy ban lại cho tôi sự vui vẻ về sự cứu rỗi của Chúa, Dùng thần linh sẵn lòng mà nâng đỡ tôi.
Whakahokia mai ki ahau te hari o tau whakaoranga: tautokona hoki ahau ki te wairua kakama.
Bấy giờ tôi sẽ dạy đường lối Chúa cho kẻ vi phạm, Và kẻ có tội sẽ trở về cùng Chúa.
Ko reira ahau whakaako ai i au ara ki te hunga tutu; a ka tahuri te hunga hara ki a koe.
Hỡi Ðức Chúa Trời, là Ðức Chúa Trời về sự cứu rỗi tôi, Xin giải tôi khỏi tội làm đổ huyết, Thì lưỡi tôi sẽ hát ngợi khen sự công bình của Chúa.
Whakaorangia ahau i te hara toto, e te Atua, e te Atua o toku whakaoranga, a ka waiatatia au mahi tika e toku arero.
Chúa ơn, xin mở mắt tôi, Rồi miệng tôi sẽ truyền ra sự ngợi khen Chúa.
Whakatuwheratia oku ngutu, e te Ariki; a ka puaki i toku mangai te whakamoemiti ki a koe.
Vì Chúa không ưa thích của lễ, bằng vậy, tôi chắc đã dâng; Của lễ thiêu cũng không đẹp lòng Chúa:
Kahore nei hoki koe e aro ki te patunga tapu; penei kua hoatu e ahau: kahore koe e ahuareka ki te tahunga tinana.
Của lễ đẹp lòng Ðức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương: Ðức Chúa Trời ôi! lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu.
Ko nga patunga tapu ma te Atua he wairua maru: e kore koe e whakahawea e te Atua, ki te ngakau maru, ki te ngakau iro.
Cầu xin Chúa hãy làm lành cho Si-ôn tùy ý tốt Ngài; Hãy xây cất các vách tường của Giê-ru-sa-lem.
Kia pai koe ki te atawhai i Hiona: hanga nga taiepa o Hiruharama.
Bấy giờ Chúa sẽ ưa thích các của lễ công bình, Của lễ thiêu, và các con sinh dâng trọn; Bấy giờ người ta sẽ dâng bò đực trên bàn thờ của Chúa.
Ko reira koe pai ai ki nga patunga tapu o te tika, ki nga tahunga tinana, he mea whakaeke katoa: ko reira ratou whakaeke ai i nga puru ki runga ki tou aata.