Psalms 41

Phước cho người nào đoái đến kẻ khốn cùng! Trong ngày tai họa Ðức Giê-hô-va sẽ giải cứu người.
Ki te tino kaiwhakatangi. He himene na Rawiri. Ka hari te tangata e whakaaro ana ki te rawakore; e whakaorangia ia e Ihowa i te ra o te he.
Ðức Giê-hô-va sẽ gìn giữ người, bảo tồn mạng sống người: Người sẽ được phước trên đất, Và Ngài chắc không phó người cho ý muốn của kẻ thù nghịch người.
Ma Ihowa ia e tiaki, e whakaora; ka whakaharitia ia i runga i te whenua: e kore ano e tukua e koe ki nga hiahia o ona hoariri.
Ðức Giê-hô-va sẽ nâng đỡ người tại trên giường rũ liệt; Trong khi người đau bịnh, Chúa sẽ cải dọn cả giường người.
Ma Ihowa ia e whakakaha, i a ia e whakaruhi ana i runga i te moenga: mau ano e whakapai katoa tona moenga i a ia e mate ana.
Tôi đã nói: Ðức Giê-hô-va ôi! xin thương xót tôi, Chữa lành linh hồn tôi, vì tôi đã phạm tội cùng Ngài.
I mea ahau, E Ihowa, tohungia ahau; rongoatia toku wairua; kua hara hoki ahau ki a koe.
Những kẻ thù nghịch tôi chúc tôi điều ác, mà rằng: Nó sẽ chết chừng nào? Danh nó sẽ diệt khi nào?
He kino te korero a oku hoariri moku, e mea ana, A hea ranei ia mate ai, pirau ai tona ingoa?
Nếu có người đến thăm tôi, bèn nói những lời dối trá; lòng nó chứa cho nó gian ác; Rồi nó đi ra ngoài nói lại.
A ki te haere mai ia kia kite i ahau, ka korero horihori ia: e ami ana tona ngakau i te kino mana; i tona putanga ki waho, korerotia ana e ia.
Hết thảy những kẻ ghét tôi đều xầm xì nghịch tôi; Chúng nó toan mưu hại tôi:
E komuhumuhu ana moku te hunga katoa e kino ana ki ahau; e whakatakoto ana i te kino moku.
Một thứ bịnh ác dính đeo trên mình nó; Kìa, bây giờ nó nằm rồi, ắt sẽ chẳng hề chổi dậy nữa.
E ai ta ratou, E piri ana te mate kino ki a ia; a ka takoto nei ia, heoi ano tona aranga ake.
Ðến đỗi người bạn thân tôi, Mà lòng tôi tin cậy, và đã ăn bánh tôi, Cũng giơ gót lên nghịch cùng tôi.
Ae, ko toku hoa ake ano, i whakawhirinaki ai ahau, i kai nei i taku taro, kua hiki ake tona rekereke ki ahau.
Ðức Giê-hô-va ôi! xin hãy thương xót tôi, và nâng đỡ tôi, Thi tôi sẽ báo trả chúng nó.
Ko koe ia, e Ihowa, kia aroha ki ahau: a whakaarahia ahau, kia utua ai ratou e ahau.
Nếu kẻ thù nghịch không thắng hơn tôi, Nhờ đó tôi sẽ nhận biết Chúa đẹp lòng tôi.
Na konei ahau i matau ai e pai ana koe ki ahau, no te mea kahore toku hoariri e whakamanamana ki ahau.
Song, nhơn vì sự thanh liêm tôi, Chúa nâng đỡ tôi, Lập tôi đứng vững ở trước mặt Chúa đời đời.
Ko ahau ia, ko koe e whakamau ake ana i ahau i runga i toku ngakau tapatahi: e whakatu ake ana hoki i ahau ki tou aroaro ake tonu atu.
Ðáng ngợi khen Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Từ trước vô cùng cho đến đời đời! A-men, A-men!
Kia whakapaingia a Ihowa, te Atua o Iharaira inamata riro ano, ake tonu atu ano hoki. Amine, ae Amine.