Apoi am stătut pe nisipul mării. Şi am văzut ridicîndu-se din mare o fiară cu zece coarne şi şapte capete; pe coarne avea zece cununi împărăteşti, şi pe capete avea nume de hulă.
Ðoạn, tôi thấy dưới biển lên một con thú có mười sừng bảy đầu, trên những sừng có mười cái mão triều thiên, và trên những đầu có danh hiệu sự phạm thượng.
Fiara, pe care am văzut -o, semăna cu un leopard; avea labe ca de urs, şi gură ca o gură de leu. Balaurul i -a dat puterea lui, scaunul lui de domnie şi o stăpînire mare.
Con thú tôi thấy đó giống như con beo; chơn nó như chơn gấu, miệng như miệng sư tử, và con rồng đã lấy sức mạnh, ngôi, và quyền phép lớn mà cho nó.
Şi au început să se închine balaurului, pentrucă dăduse puterea lui fiarei. Şi au început să se închine fiarei, zicînd: ,,Cine se poate asemăna cu fiara, şi cine se poate lupta cu ea?``
Người ta khởi thờ phượng con rồng, bởi nó đã lấy quyền phép cho con thú; và họ cũng thờ phượng chính con thú, mà rằng: Ai sánh được với con thú, ai giao chiến cùng nó được?
I s'a dat să facă război cu sfinţii, şi să -i biruiască. Şi i s'a dat stăpînire peste orice seminţie, peste orice norod, peste orice limbă şi peste orice neam.
Nó lại được phép giao chiến cùng các thánh đồ và được thắng. Nó cũng được quyền trị mọi chi phái, mọi dân tộc, mọi tiếng và mọi nước.
Şi toţi locuitorii pămîntului i se vor închina, toţi aceia al căror nume n'a fost scris, dela întemeierea lumii, în cartea vieţii Mielului, care a fost jungheat.
Hết thảy những dân sự trên đất đều thờ lạy nó, là những kẻ không có tên ghi trong sách sự sống của Chiên Con đã bị giết từ buổi sáng thế.
Cine duce pe alţii în robie, va merge şi el în robie. Cine ucide cu sabia, trebuie să fie ucis cu sabie. Aici este răbdarea şi credinţa sfinţilor.
Nếu ai bắt người làm phu tù, chính mình sẽ bị làm phu tù; nếu ai giết người bằng gươm, mình phải bị giết bằng gươm. Ðây là sự nhịn nhục và đức tin của các thánh đồ.
Ea lucra cu toată puterea fiarei dintîi înaintea ei; şi făcea ca pămîntul şi locuitorii lui să se închine fiarei dintîi, a cărei rană de moarte fusese vindecată.
Nó cũng dùng mọi quyền phép của con thú trước tại trước mặt con thú ấy, và nó bắt thế gian cùng dân cư nó phải thờ lạy con thú trước, là con có vít thương đến chết đã được lành.
Şi amăgea pe locuitorii pămîntului prin semnele, pe cari i se dăduse să le facă în faţa fiarei. Ea a zis locuitorilor pămîntului să facă o icoană fiarei, care avea rana de sabie şi trăia.
Nó lừa dối dân cư trên đất bằng những phép lạ nó đã được phép làm ra trước mặt con thú; và khuyên dân cư trên đất tạc tượng cho con thú đã bị thương bằng gươm và đã sống lại.