Psalms 39

Ki te tino kaiwhakatangi, ki a Ierutunu. He himene na Rawiri. I mea ahau, Ka ata whakaaro ahau ki oku ara, kei hara toku arero; ka tiakina toku mangai, paraire rawa, i te mea kei toku aroaro te tangata kino.
Tôi nói rằng: Tôi sẽ giữ các đường lối tôi, Ðể tôi không đúng lưỡi mình mà phạm tội: Ðang khi kẻ ác ở trước mặt tôi, Tôi sẽ lấy khớp giữ miệng tôi lại.
I whakamoroki ahau, i wahangu, kihai i puaki taku kupu, ahakoa pai; a ka oho toku mamae.
Tôi câm, không lời nói, Ðến đỗi lời lành cũng không ra khỏi miệng; Còn nỗi đau đớn tôi bị chọc lên.
Werawera ana toku ngakau i roto i ahau; i ahau e whakaaro ana ka ka te ahi, a ka korero toku arero.
Lòng tôi nóng nảy trong mình tôi, Ðương khi tôi suy gẫm, lửa cháy lên, Bấy giờ lưỡi tôi nói:
E Ihowa, meinga ahau kia matau ki toku mutunga, ki te maha hoki o oku ra, e hia ranei: kia matau ai ahau he mea memeha noa ahau.
Hãy Ðức Giê-hô-va, xin cho tôi biết cuối cùng tôi, Và số các ngày tôi là thể nào; Xin cho tôi biết mình mỏng mảnh là bao.
Nana, he whanuitanga ringa oku ra kua homai nei e koe; he kahore noa iho ano oku tau i tou aroaro: ahakoa u noa te tu o nga tangata katoa, he mea memeha kau. (Hera.
Kìa, Chúa khiến ngày giờ tôi dài bằng bàn tay, Và đời tôi như không không được mặt Chúa; Phải, mỗi người, dầu đứng vững, chỉ là hư không.
He pono kei roto i te atarangi te tangata e kopikopiko noa ana; he pono e ohorere noa ana ratou: e ami ana ia i te taonga, a kahore e matau ma wai ranei e kohi.
Quả thật, mỗi người bước đi khác nào như bóng; Ai nấy đều rối động luống công; Người chất chứa của cải, nhưng chẳng biết ai sẽ thâu lấy.
Na he aha taku e tatari atu nei, e te Ariki? Ko koe taku e tumanako ai.
Hỡi Chúa, bây giờ tôi trông đợi gì? Sự trông đợi tôi ở nơi Chúa.
Whakaorangia ahau i aku mahi tutu katoa: kaua ahau e waiho hei tawainga ma te wairangi.
Xin hãy giải cứu tôi khỏi các sự vi phạm tôi; Chớ làm tôi nên sự nhuốc nhơ của kẻ ngu dại.
Wahangu ana ahau, kihai i kuihi toku mangai: he meatanga hoki tenei nau.
Tôi câm, chẳng mở miệng ra, Bởi vì Chúa đã làm sự ấy.
Nekehia atu i ahau tau whiu: ka ngaro ahau i te pakinga a tou ringa.
Xin cất khỏi tôi sự trách phạt của Chúa: Tôi tiêu hao bởi tay Chúa đánh phạt.
Ka pakia e koe te tangata, ka whakatupehupehutia mo te hara, ka meinga e koe tona ataahua kia memeha, kia pera me te purehurehu: he pono he mea teka noa nga tangata katoa. (Hera.
Khi Chúa trách phạt loài người vì cớ gian ác, Thì Chúa làm hao mòn sự đẹp đẽ họ khác nào như con sùng: Thật, mọi người chỉ là hư không.
Whakarongo ki taku inoi, e Ihowa, kia titaha mai tou taringa ki taku karanga; kei wahangu koe ki oku roimata: he heke hoki ahau nau, he manene, he pera me oku matua katoa.
Ðức Giê-hô-va ôi! xin hãy nghe lời cầu nguyện tôi, lắng tai nghe tiếng kêu cầu của tôi; Xin chớ nín lặng về nước mắt tôi, Vì tôi là người lạ nơi nhà Chúa, Kẻ khác ngụ như các tổ phụ tôi.
Kia ata hanga ki ahau, kia ta ai toku manawa, keiwha haere atu ahau i konei, a ka kahore noa iho.
Chúa ôi! xin hãy dung thứ tôi, để tôi hồi sức lại Trước khi tôi đi mất, không còn nữa.